K8 mến tặng các anh K3 (chúng em còn nhớ hồi ở Trung Quốc, các anh K3 có xuống K8 giúp chúng em làm vệ sinh cá nhân...vì chúng em còn nhỏ quá)
Sáng tác: Nguyễn Ngọc Bạch
Thể hiện: Nguyễn Thụy Đông Đào
Cờ Việt Nam bao năm nhuộm máu hùng anh.
Phất phới hiên ngang hồn ai mờ trong xương máu.
Người Việt Nam chen vai chiến đấu ngàn năm.
Ŀánh dấu vinh quang lịch sử những trang huy hoàng.
Đất nước hỡi ! Reo lên đi !
Ta ra đi mùa thu xưa xa vắng.
Gió hỡi gió ! Ngân lên đi !
Vung gươm thiêng ta cắt đứt đường tơ vương.
Và từ đây cao tiếng hát hành quân.
Trời âm u tiếng vọng nơi trường sa.
Xung phong lên ! xung phong tiêu diệt quân thù..
Ta vui ca mài thanh gươm chính khí.
Gió hỡi gió ! Ngân lên đi !
Vung gươm thiêng ta lấy máu đền nợ trai
.--------------------------------------------------------------------
Nguyễn Ngọc Bạch (1922 – 1985)
Quê quán: Chợ Mới – An Giang
Một đời với sân khấu cải lương | ||
NSND Tám Danh (1901-1976) Năm 2004 - 2006, Sở Văn hóa Thông tin – Bảo tàng Cần Thơ thực hiện đề tài nghiên cứu 5 văn nghệ sĩ Cần Thơ (đã qua đời), có nhiều cống hiến cho sân khấu cải lương – trong đó, có đoạn kết luận về cuộc đời, sự nghiệp của NSND Tám Danh: “Ông đã thể hiện đúng nhân cách, khí chất của một người đảng viên cộng sản; một nghệ sĩ lớn cả đời vì nước vì dân, vì sự nghiệp sân khấu cải lương. Những gì ông để lại, đã trở thành tài sản nghệ thuật vô giá; những bài học kinh nghiệm để đời cho các thế hệ nghệ sĩ sau này noi gương”. | ||
Nghệ sĩ nhân dân (NSND) Tám Danh tên thật là Nguyễn Phương Danh, sinh năm 1901 tại làng Nhơn Nghĩa, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ). Cũng vào năm sinh của ông, người Pháp đào kinh xáng Xà No nối 2 tỉnh Cần Thơ - Rạch Giá. Gia đình cha, mẹ ông sinh sống trên một mảnh vườn bên kia Vàm Xáng. Tám Danh có tất cả 9 anh, chị, em. Mới 9 tuổi, ông đã biết đờn ca, có chân trong ban nhạc lễ của xã. Giai đoạn này ông tham gia Ban tài tử Ái Nghĩa, một ban đờn ca nổi tiếng ở Khi gánh hát kim thời Đồng Bào Do có sở trường biết võ nghệ và đờn ca tài tử, cũng từng lên sân khấu hát chặp nên thỉnh thoảng ông cũng được vào các vai phụ. Thế rồi, một buổi tối, kép chính Hai Giỏi tự nhiên vắng mặt, bà bầu gánh Tư Sự cho Tám Danh ra sân khấu thay vai Hai Giỏi. Đêm đó là khúc quanh cuộc đời Tám Danh, ông chính thức trở thành kép hát trên sân khấu Đồng Bào Nam, một gánh hát cải lương chuyên nghiệp hoàn chỉnh đầu tiên của Nam kỳ lục tỉnh. NGƯỜI NGHỆ SĨ ĐI THEO CÁCH MẠNG Khi đứng trên sân khấu Đồng Bào Năm 1931, gánh Phước Cương được mời sang Pháp lưu diễn tại Hội chợ đấu xảo Paris, làm rạng danh nghệ thuật cải lương, nhất là tuồng hát Tứ đổ tường, kép Tám Danh thủ vai anh chồng ghiền Hà Công Yên. Ông diễn xuất thần, như một lối tố cáo sự xấu xa của chế độ thuộc địa, làm các quan chức “mẫu quốc Pháp” bất bình. Ngoài ra, ông cùng nghệ sĩ Bảy Nhiêu, Năm Phỉ diễn các trích đoạn tuồng Phụng Nghi Đình, Xử án Bàng Quí Phi… nổi tiếng, nên gánh được Hoàng hậu Hòa Lan sai cận thần rước sang hát tại Hoàng cung 15 đêm. Kế tiếp, hát ở các nhà hát ngoại thành Sau đợt đi Pháp về nước, gánh Phước Cương thẳng đường ra Bắc, hát từ Hà Nội trở vô Sài Gòn. Tám Danh trở thành một trong những nghệ sĩ vừa nổi danh, vừa giàu sang nhứt nhì trong giới cải lương, sắm xe du lịch Renault đi hát. Năm 1933, Tám Danh và Bảy Nhiêu cùng một số anh chị em nghệ sĩ lập gánh Tiếng Chung, thống nhất xây dựng gánh thành một tập thể cùng làm, cùng hưởng. Gánh Tiếng Chung bị rã. Tám Danh lại hợp cùng ông Hai Nhân ở Châu Đốc và cô đào nổi tiếng Hai Đàng, lập gánh Danh Đàn nhưng cũng không thành công. Cuối năm 1936, trong tâm trạng chán chường sau những thất bại trên đường đi hát, Tám Danh chuyển sang làm cho hãng dĩa hát Asia, do ông Ngô Công Mạnh (cũng là bạn thân Tám Danh) làm giám đốc. Sau đó, hợp tác với ông Nguyễn Văn Đinh lập hãng phim Asia Films, làm bộ phim Trọn với tình (tức Kiếp hoa). Khi thế chiến thứ hai bùng nổ (1939), sân khấu cải lương cũng bị “vạ lây”, nhiều gánh tan rã. Sau Nam kỳ khởi nghĩa, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp do Đảng ta lãnh đạo ngày càng phát triển, Tám Danh được đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn (một cán bộ của Xứ ủy Nam kỳ) móc nối, giác ngộ cách mạng. Lúc này, ông đang theo gánh “Quốc gia kịch đoàn”, vừa làm kép, vừa làm thầy tuồng nên đã dàn dựng các vở đề cao tinh thần yêu nước, chống thực dân. Năm 1944, khi đoàn đang diễn tại bến Mỹ Tho, chính quyền Pháp đến bao vây, lùng bắt nghệ sĩ Tám Danh. Thoát được, ông dẫn con trốn về quê nhà Cần Thơ. Sau đó, cùng bà con đứng lên cướp chính quyền tại khu vực Nhơn Nghĩa – Mỹ Khánh, rồi tham gia kháng chiến. Năm 1946, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Mỹ Khánh. Đầu năm 1949, Tám Danh chuyển sang quân đội được rút lên Đội biệt động số 8. Từ năm 1951 lại chuyển về Phòng Chính trị Khu 8, công tác chung với nhiều anh chị em văn nghệ sĩ nổi tiếng từ thành ra chiến khu như nhà thơ Nguyễn Bính, nhà thơ Bảo Định Giang, nhạc sĩ Hoàng Việt, ca sĩ Quốc Hương, nghệ sĩ Ba Du,v.v… Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Cuối năm 1952, ông được biệt phái về miền Tây (khu 9) cùng Nguyễn Ngọc Bạch sáng lập và lãnh đạo Đoàn Văn nghệ Cửu Long, trực thuộc Chi hội Văn nghệ XÂY DỰNG NỀN SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG CÁCH MẠNG TẠI MIỀN BẮC Những năm đầu tập kết ra Bắc, Tám Danh giữ nhiệm vụ Đội phó Đội cải lương Nam bộ, đồng chí Nguyễn Ngọc Bạch làm Đội trưởng. Sau đó, Bộ Văn hóa thành lập Ban nghiên cứu cải lương, do nhà viết kịch - nhà thơ Thế Lữ làm Trưởng ban, cùng các nghệ sĩ Tám Danh, Ba Du, Triệu An, Ngọc Thới, Đắc Nhẩn, Ngô Văn Du, Hoàng Tuyển, Thanh Tuyền, Chi Lăng, Ngọc Cung, Phạm Ngọc Truyền… Đội cải lương Năm 1959, Bộ Văn hóa chính thức thành lập Trường Nghệ thuật Ca Kịch Dân tộc (nay là Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội). Tám Danh được chuyển về trường, lúc này tuổi ông cũng khá cao (gần 60) nhưng vẫn nỗ lực dốc hết tâm huyết truyền nghề. Ông tổng kết kinh nghiệm cả cuộc đời đi hát kết hợp với tự học, nghiên cứu nghệ thuật hí kịch Trung Quốc rồi đúc kết, sắp xếp các phương pháp ca múa, sáng tạo, biên soạn một công trình để đời: Giáo trình hệ thống vũ đạo cải lương, sử dụng giảng dạy nhiều thế hệ học trò, sau này thành danh như các nghệ sĩ ưu tú: Thu Vân, Công Thành, Tấn Đạt, Thanh Vy, Hà Quang Văn, Ca Lê Hồng,v.v… Năm 1960, nghệ sĩ Tám Danh được bầu vào Quốc hội khóa II (đơn vị Quảng Bình). Sau đó, tiếp tục được bầu vào chức vụ Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Khi miền Nam giải phóng (1975) ông cùng với Đoàn Cải lương Nam bộ trở về Sài Gòn, những mong tìm lại các nghệ sĩ bè bạn cũ là Năm Châu, Bảy Nhiêu, Phùng Há… xây dựng những vở diễn cải lương tiêu biểu để phục vụ khán giả. Nhưng rồi, trong một cơn bạo bệnh Tám Danh qua đời tại Bệnh viện Chợ Rẫy vào ngày 9-3-1976, ông được an táng tại Nghĩa trang nghệ sĩ Gò Vấp - thành phố Hồ chí Minh. Do những cống hiến và thành tích xuất sắc trong 66 năm hoạt động nghệ thuật cải lương, nghệ sĩ Tám Danh được Đảng, Nhà nước ta khen thưởng nhiều Huân chương cao quý: Huân chương Độc lập, Huân chương Kháng chiến hạng II, Huân chương Lao động hạng II và hạng III. Năm 1984, ông được truy phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân khóa đầu tiên. Tháng 6 năm 1994 Trường Nghệ thuật Sân khấu TPHCM tổ chức buổi tọa đàm về thân thế, sự nghiệp của NSND Tám Danh, khẳng định ông là một nghệ sĩ lớn, người thầy lớn của nhiều thế hệ nghệ sĩ cải lương. Năm 2004, Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh thực hiện chương trình sân khấu nêu chủ đề, khẳng định: “NSND Tám Danh - Một cây đại thụ của sân khấu cải lương” trong chuyên mục “Những cánh chim không mỏi”. NHÂM HÙNG – Theo Báo Cần Thơ |
1 comment:
Cảm ơn bạn. Bài này tui biết lâu rùi mà chưa tìm được.
Post a Comment